Tên di sản : Nhà thờ họ Trần
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 4109/QĐ-UBND
Giới thiệu
Về quy mô cấu trúc:
Hiện nay sau nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhà thờ họ Trần đã tương đối hoàn chỉnh với kết cấu của công trình kiến trúc hình chuôi vồ gồm Tiền đường và Hậu cung.
Từ ngoài di tích vào gồm các công trình như sau:
Sân: Nằm phía trước và kéo dài hết chiều ngang của nhà thờ. Diện tích 32,12m2 (Kích thước chiều rộng 7,3m; chiều dài 4,4m). Xung quanh được xây tường xiên hoa cao 0,6m, toàn bộ sân được láng xi măng.
Nhà tiền đường: Tiếp giáp với sân. Đây là ngôi nhà gồm ba gian hai chái nằm ngang so với toàn bộ nhà thờ. Diện tích 20,46m2 (chiều rộng 6,2m; chiều dài 3,3m). Ngăn cách giữa nhà Tiền đường và sàn là ba cửa được xây cuốn vòm. Cửa giữa có kích thước cao 2,1m; rộng 1,4m, hai cửa bên có kích thước hẹp hơn cửa giữa và được xây đăng đối nhau. Kích thước của hai cửa bên chiều cao 1,98m; rộng 0,84m. Trên mái được đắp hình lưỡng long chầu nhật, nền nhà được láng xi măng.
Hậu cung: Tiếp giáp với tiền đường là hai gian hậu cung được nối thông với nhà tiền đường bởi hệ thống gồm ba cửa gỗ. Cửa giữa có kích thước cao 1,87m; rộng 1,24m. Toàn bộ cửa giữa được dùng ván lùa gồm 7 ván. Hai cửa bên có kích thước nhỏ hơn cửa giữa và cũng được xây đăng đối nhau. Kích thước hai cửa bên cao 1,78m; rộng 0,6m. Hai cửa bên được làm bằng gỗ theo kiểu cửa lá sách. Phía trên treo bức y môn, hai bên là hai câu đối bằng chữ Hán:
“Phẩm tước triều đình lưu vạn đại
Công hầu kế thế vĩnh thiên thu”
(Phẩm trước triều đình ban tặng lưu truyền vận đời
Bậc công hầu kế nối ở đời lưu mãi ngàn năm).
Hậu cung: Gồm hai gian, xung quanh xây tường hồi bít đốc, hai gian ba mái (hai mái chạy theo chiều dọc của nhà thờ, một mái phía trước tiếp giáp với Tiền đường). Hai gian này có kích thước không bằng nhau. Gian ngoài có diện tích 18,7m2 (chiều dài 3,4m; chiều rộng 5,5m), gian trong có diện tích hẹp hơn gian ngoài. Diện tích gian trong là 17,86m2 (chiều dài 3,8m; chiều rộng 4,7m). Toàn bộ phần mái của Hậu cung được lợp ngói máy, phía trên bờ nóc lợp ngói bò. Riêng mái phía trước lợp ngói vẩy hến (trước kia cả ba mái đều được lợp ngói vẩy hến nhưng sau khi tôn tạo năm 2000, vì điều kiện ngói cũ bị hư hỏng nên dòng họ Trần chỉ còn giữ lại mái phía trước là ngói cũ). Hệ thống hoành tải, rui, mè được làm bằng gỗ lim chắc chắn. Đỡ toàn bộ phần mái này là hệ thống vì kèo gồm 4 bộ vì.
Vì một kết cấu đơn giản gồm một xà ngang, phía trên là hai cột trốn nằm trên đấu bát. Do được cấu tạo để làm nhiệm vụ đỡ toàn bộ phần mái phía trước nên được làm theo một kết cấu khá vững chãi bằng các kèo nối từ mộng ngoàm các cột trốn của vì hai xuống và chạy dài hết phần mái phía trước. Để tạo nên lực chắc chắn cho phần mái trước, từ hai đầu cột trốn vì hai còn được lắp thêm hai kèo suốt nối xuống hai góc của mái trước vào đầu hai cột cái.
Vì hai được làm theo kết cấu tương đối giống nhau theo thức chồng rường kẻ chuyền đơn giản, phía dưới là quá giang nối từ đầu cột phía bắc sang đầu cột phía nam. Từ hai đầu cột và câu đầu phía trên là hai kẻ suốt nối với nhau trên một đấu bát, đấu bát này làm nhiệm vụ đỡ trượng lương của ngôi nhà. Hai kẻ chuyền được bắt đầu từ câu đầu phía trên theo kết cấu mộng ngoàm chạy xuống quá giang tạo nên thế vững chắc cho toàn bộ vì. Đầu các cột cái đều có các đầu bẩy được nối thông từ quá giang vào tường. Các đầu dư của các bộ vì được soi gờ đơn giản. Vì hai có khác hơn so với vì ba bởi các ván lá dong được trang trí rất cầu kỳ bằng kỹ thuật chạm bong kênh. Hai ván bên được chạm hai hình chim phượng, ở giữa phía trên từ câu đầu lên thượng lương là bức ván được chạm trổ bức hổ phù, phía dưới chạm một bức đại tự trang trí hình lưỡng long cách điệu gồm ba chữ “Trần tộc đường” (Nhà thờ dòng họ Trần).
Vì ba, có kết cấu tương đối giống vì hai nhưng không có hai cột ở giữa từ dưới lên mà được thay bằng hai cột trốn phía trên quá giang. Vì ba không có vấn trang trí như vì hai.
Vì bốn được kết cấu đơn giản theo thức chồng rường giá chiêng. Trên xà ngang là hai cột trốn nằm trên hai đấu bát làm nhiệm vụ đỡ câu đầu phía trên. Ở giữa câu đầu có một đấu bát đỡ một tấm ván (thay cột trốn) được lắp vào mộng hai kèo trên, phía trên đỡ thượng lương.
Liên kết giữa các vì của nhà thờ là hệ thống hai hàng xà dọc thượng và hai hàng xà dọc hạ. Hai hàng xà dọc thượng được nối thông với nhau qua đầu các cột trốn nằm trên quá giang, hai hàng và dọc hạ được liên kết với nhau qua liên kết mộng ngoàm với các cột cái. Hệ thống cột gỗ gồm bốn hàng tám cột gian giữa và hai cột phía tường hồi phía tây. Các cột có đường kính bằng nhau (d = 22cm) được đặt trên các chân tảng theo hình bồng trám (kích thước cao 27cm; đường kính 22cm). Khoảng cách giữa hai hàng cột giữa là 1,7m; từ cột giữa sang hai cột bên là 0,7m. Như vậy, với hệ thống các cột được bố trí một cách hợp lý đã tạo nên sự vững chắc cho toàn bộ ngôi nhà.
Hệ thống thờ tự:
Hiện nay tại nhà thờ họ Trần thờ tự chủ thần là Trần Uy Đức và một số người trong dòng họ. Tại đây được bố trí ba bệ thờ ở giữa và các ban thờ hai bên.
Bệ thờ thứ nh���t:
Có kích thước cao 1,1m; chiều dài 1,5m; rộng 1,2m. Phía trên đặt long ngai thờ. Thần vị ghi chữ Hán là: “Tiền triều Trần đại gia tiên tổ tự Phúc Chân, tự Phúc Lương chi thần chủ.” (Thần chủ nghi tên chữ là Phúc Lương, tên chữ là Phúc Chân là tổ tiên dòng tộc từ triều Trần trước đây).
Bệ thứ hai:
Có kích thước cao 1m; chiều rộng 1,66m; chiều dài 1,5m. Phía trên đặt long ngai. Thần vị ghi chữ Hán là: “Tiền triều Trần đại gia sắc phong Chánh Lĩnh binh. Tái gia phong Trà lệnh hầu Trần quý công tự Uy Đức chủ quân chi thần chủ”. (Thần chủ ngài họ Trần, tên chữ là Uy Đức, lại gia phong thêm tước: Trà Lệnh hầu, làm quan Chánh Lãnh binh triều nhà Trần trước đây). Phía trước đặt tượng thờ Trần Uy Đức bằng gỗ. Tượng có kích thước cao 0,7m; rộng 0,27m được đặt trên đế rộng 0,36m; cao 0,28m.
Bệ thứ ba có kích thước cao 0,96m; rộng 0,65m, dài 1,5m. Phía trên đặt bát hương và bảng chúc văn bằng gỗ, chấp kích động, mâm bồng, v.v...
Ngoài ba bệ thờ ở giữa, hai bên được xây từ hai tường ra các bệ thờ được nối dài từ trong ra ngoài có kích thước chiều dài là 3,2m; rộng 0,65m; cao 0,8m. Trên hai bệ thờ dọc này đặt 5 long ngai và một khám thờ để thờ các vị tiên tổ dòng họ Trần.
Ở gian ngoài của nhà hậu cung gồm có một tắc tải thờ hội đồng tiên tổ có kích thước cao 1,17m; chiều dài 1,83m; chiều rộng 0,7m.
Thấp hơn ở phía trước là sập thờ đô hầu có kích thước cao 0,7m; rộng 0,8m; dài 1,5m. Phía trên đặt ba thân vị ghi tên là Trần Trí Tráng, Trần Chí, Trần Nguyên Lục.
Như vậy nhà thờ dòng họ Trần là một di tích có kết cấu phù hợp, các nhân vật được thờ phù hợp với một nhà thờ họ truyền thống từ xưa đến nay.
Các hiện vật trong di tích:
Trải qua thời gian dài tồn tại, một số hiện vật tại di tích đã bị mất mát và hư hỏng. Dòng họ Trần đã bảo vệ và gìn giữ được tương đối các hiện vật cổ của nhà thờ và từng bước bổ sung thêm một số đồ thờ cần thiết vào trong nhà thờ. Hiện tại trong di tích còn lại những hiện vật sau:
Hiện vật bằng gỗ:
Khám thờ cổ: 01cái
Long ngai cổ: 09 cái
Thần vị: 10 cái
Đài chén cổ: 33 cái loại nhỏ
Ống hương cổ: 06 cái
Cây nến cổ: 06 cái
Khay mịch cổ: 15 cái
Bảng chúc cổ: 01 cái
Mâm bồng cổ: 02 cái
Hộp đựng sắc cổ: 01 cái
Tắc tải cổ: 01 cái
Bàn thờ cổ: 01 cái
Giá đũa cổ: 04 bộ
Hạc gỗ cổ: 04 con (02 lớn, 02 nhỏ)
Mũ thờ cổ: 02 cái
Kiếm gỗ: 04 cái
Đai gỗ: 04 cái
Tượng gỗ cổ: 01 pho (Kích thước: Tượng cao 70cm, rộng 27cm. Đế cao 28cm; rộng 36cm).
Đồ đồng:
Chấp kích thờ cổ loại nhỏ: 01 bộ
Chuông loại trung: 01 cái (mới cung tiến)
Đồ sứ:
Bát hương cổ, tráng men nâu loại lớn, được trang trí lưỡng long: 01 cái (Kích thước cao 30cm; đường kính 40cm).
Bát hương cổ, tráng men nâu loại nhỏ: 01 cái (Kích thước cao 20cm; đường kính 27cm).
Đồ đá:
Bát hương cổ: 01 cái (loại nhỏ)
Đồ giấy:
Sắc phong: 02 cái
Đồ vải:
Lọng tàn: 02 cái
Y môn: 02 cái